tonga | Date: Saturday, 2009-02-14, 11:32 AM | Message # 1 |
Lieutenant
Group: Users
Messages: 57
Reputation: 0
Status: Offline
| Cậu chỉ nghe một số người trong làng nói rằng lúc mẹ đi cấy ở cánh đồng Tích Nội (đồng Trẩy), có một đóa hoa sen cứ dạt vào trước mặt bà. Bà khoát đi cố đẩy nó ra xa, nhưng nó lại dạt vào như cũ. Bà liền lấy bóc ra ăn. Không ngờ sau đó thụ thai đến 13 tháng mới sinh ra Lê Hoàn. Â'y là tất cả những gì mà Lê Hoàn biết được về cha mẹ mình. Thế rồi thời gian đã làm cho Lê Hoàn không quan tâm đến khả năng tìm hiểu lai lịch của người cha bí mật của mình. Cũng không phải quan tâm gì đến chuyện họ hàng làng nước. Đời ông đã hoàn toàn dành cho sự nghiệp chiến đấu và toàn tâm phụng sự vua Đinh. Con người hơn ông 16 tuổi này, đã có chiến công tung hoành ngang dọc, dẹp dược nội loạn, thu giang san về một mối, thực xứng đáng là một bậc anh hùng. Trong cuộc đánh dẹp các sứ quân, Lê Hoàn tỏ ra là người có tài nên được Đinh Bộ Lĩnh giao cho trông coi 2000 binh sĩ. Đến khi dẹp yên các sứ quân thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh. Lê Hoàn được phong chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ của triều đình Hoa Lư. Lúc này Lê Hoàn vừa tròn 30 tuổi. Do tài năng và phẩm chất của mình, lại đang mang chức vụ là Thập đạo tướng quân, Lê Hoàn được mọi người giao trách nhiệm làm nhiếp chính cho ông vua nhỏ Đinh Toàn, mới có 6 tuổi, với danh hiệu là Vệ Vương. Bà mẹ của Đinh Toàn là Dương Thị làm Hoàng thái hậu, cùng coi việc triều chính. Làm nhiếp chính cho một ông vua nhỏ nên Lê Hoàn phải tự mình định đoạt, giải quyết tất cả mọi vấn đề của đất nước. Ông tự xưng là phó vương, và cũng được các triều thần đồng ý. Chỉ có các ông Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp là không tán thành. Họ cho rằng Lê Hoàn đang có âm mưu cướp ngôi, nên cần phải hành động chống lại. Họ đem quân bản bộ của mình, tấn công Hoa Lư. Nhưng Lê Hoàn đã kịp thời chống lại, đốt cháy các chuyến thuyền. Tất cả ba người đều bị bắt sống, đem về hành tội. Nghe tin Đinh Tiên Hoàng mất, Ngô Nhật Khánh dẫn quân Chiêm Thành đem hơn một nghìn chiến thuyền sang đánh nước ta. Lê Hoàn điều binh chống lại, thuyền chiến đến hai bên cửa bể Đại ác (tức Đại An, Nam Định) và Tiểu Khang (cửa Càn, Yên Mô, Ninh Bình) bị mưa bão, đều lật chìm. Ngô Nhật Khánh và quân Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền vua Chiêm chạy thoát về nước. Bấy nhiêu thắng lợi càng nâng cao uy tín của Lê Hoàn. Triều đình và dân chúng đều thấy rằng ông thực sự là con người lãnh đạo đất nước. Nhưng Lê Hoàn vẫn chưa hề nghĩ đến việc mình sẽ rắp ranh ngôi báu. Trong tình hình triều chính vô cùng rối ren Lê Hoàn thấy mình phải cố gắng hết sức để ổn định vương triều nhà Đinh. Ông thành thực phò tá ông vua nhỏ Đinh Toàn, giữ đúng phép tắc của một người bầy tôi trước vị vua nhỏ tuổi. Và bên cạnh Đinh Toàn còn có bà Dương Hậu. Bà không chính thức đóng vai trò nhiếp chính, nhưng vẫn phải lo chăm sóc cho con, bày vẽ cho con từ cách đi đứng, cách ngồi trên ngai vàng và ứng xử trò chuyện với trăm quan. Những lúc triều đình có việc, bà cũng phải lắng nghe, phải chờ đợi ý kiến Lê Hoàn và truyền đạt lại với con, để hiểu ý phó vương cho rõ. Trước đây, hồi Đinh Tiên Hoàng còn sống, thỉnh thoảng bà cũng có gặp Lê Hoàn vài phút thoáng qua còn bây giờ thì gần như lúc nào, bà cũng phải trò chuyện, hỏi han vị thập đạo tướng quân, lúc con bà lâm triều, cũng như lúc ra vào cung nội. Dương Hậu hãy còn trẻ lắm. Không rõ tên thật của bà là gì (sau này nhiều tài liệu viết bà là Dương Vân Nga, lâu ngày thành quen, chứ thực ra sử sách không ghi chính thức). Bà thuộc dòng dõi của Dương Diên Nghệ, là con gái của Dương Tam Kha, về làm vợ Đinh Tiên Hoàng, cùng với 4 bà khác đều được phong là Hoàng hậu. Những buổi gặp gỡ thân tình với vị thập đạo tướng quân oai phong, đường bệ, luôn luôn làm cho Dương Hậu xao xuyến một niềm riêng. Con người tài năng và anh hùng như thế, sao lại không thể là một chỗ dựa cho mình. Đứa con ta hiện nay đang được người chăm sóc, và bản thân ta cũng thấy người đối xử một cách khác thường. Những lời tâu thái hậu trịnh trọng, nhưng lại rất dịu dàng, hình như trong đó chứa đựng một chút gì kín đáo. Nhưng nếu... thì có gây ra những điều dị nghị gì không... Dương Hậu băn khoăn, nhưng bà cũng không dám nghĩ xa hơn nữa. Phải cố nén lòng, và hãy cùng Lê Hoàn giúp Đinh Toàn làm quen với công việc của một ông vua. Về phía Lê Hoàn, ông cũng nhận ra được cảm tình của Dương Hậu, nhưng ông vẫn luôn luôn giữ đúng tư cách của mình. Dù sao đi nữa, thì bây giờ đây, mình còn ở địa vị một kẻ bề tôi. Còn rồi đây? Lê Hoàn cũng không dám nghĩ xa hơn nữa.... Giữa lúc ấy thì ở phương Bắc, nhà Tống lại rắp tâm thôn tính phương Nam. Tin hai cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị giết hại, khiến cho Triều đình nhà Tống nghĩ đến cơ hội thuận lợi để tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược. Giờ chiến tranh đã điểm. Vua Tống lại sai Lư Đa Tốn viết thư cho Lê Hoàn, vừa chiếu dụ vừa đe dọa. Lá thư này do một nhà văn đời Tống là Vương Vũ Xứng thảo, có đoạn dùng lời rất quyết liệt, bảo Lê Hoàn: "Người nên qui phục, chớ để vạ đến. Quân lính nhà vua đã chỉnh tề, trống chiêng nghiêm ngặt, theo ta thì ta tha, trái ta thì ta đánh. Chỉ có theo hay chống là lành hay dữ, người nên xét kỹ". Trước tình thế vô cùng nghiêm trọng ấy, cả triều đình đều vô cùng lo ngại. Tiếp theo là văn thư các cấp từ Lạng Châu (Bắc Giang, Lạng Sơn) gửi về, các quan văn võ bàn ra nói vào, kẻ bảo nên đánh, kẻ nghĩ nên hàng, chưa biết quyết định ra sao. Còn ông vua nhỏ Đinh Toàn cố nhiên không biết nói năng gì, chỉ biết trông chờ vào mẹ. Dương Hậu quay lại nói với Lê Hoàn: Tình thế bức bách như vậy, tướng quân định liệu ra sao? Lê Hoàn thản nhiên đáp: - Xin Thái hậu, đừng quá bận tâm mà ảnh hưởng đến ngọc thể. Tôi đã được giao việc phò vua giúp nước, xin hết lòng hết sức không ngại khó khăn. Trước thái độ đường hoàng và lập trường kiên quyết của Lê Hoàn, Dương Hậu thấy yên tâm giảm bớt điều lo lắng. Bà ân cần nói với vị tướng đầy tin tưởng: - Đã vậy, ta thiết nghĩ tướng quân nên ra hiểu dụ ba quân, và nếu binh đội của ta chưa đủ, thì nên kịp thời cho tuyển thêm dũng sĩ trong các lộ, các châu về luyện tập, chờ ngày giao chiến với địch. Lê Hoàn mời ngay Đinh Toàn và Dương Hậu ngự triều. Ông trình bày cho các quan văn võ nhận rõ trách nhiệm phải bảo vệ đất nước, giữ gìn cơ nghiệp. Ông cũng phân tích lợi hại giữa hai bên quân Tống và quân ta, chỉ ra rằng chúng ta chắc chắn có thể giành được thắng lợi. Ông giơ tay, dõng dạc: - Mai ngày quân địch kéo sang, tôi xin tự thân mình đốc suất việc phòng bị và chống cự, song rất cần có những đại tướng giúp đỡ trong việc dùng binh. Xin được cử ông Phạm Cự Lượng làm đại tướng quân, đi tiền phong trong cuộc giao chiến. Nghe Lê Hoàn tiến cử Phạm Cự Lượng, triều đình ai cũng ngạc nhiên. Phạm Cự Lượng là em Phạm Hạp, người đã cùng Nguyên Bặc, Đinh Điền khởi binh chống lại Lê Hoàn, bị Lê Hoàn đánh bại, bắt giam và xử tử. Biết đâu Phạm Cự Lượng không nung nấu một mối thù không đội trời chung với người đã chặt đứt tình anh em ruột thịt của mình. Nhưng rồi họ nghĩ lại. Quả thực Lê Hoàn là con người đại lượng, không có sự tị hiềm, biết tin tưởng vào phẩm chất người giúp việc mình. Trước tình hình gay go của đất nước, vấn đề thiết yếu nhất là phải chọn được đúng người có khả năng. Phạm Cự Lượng là đại tướng thì phải giao trách nhiệm cho xứng đáng. Dù là anh em, người nào, có chí hướng riêng của người nấy, không nên vì tội của anh, mà có thành kiến nghi ngờ với em. Lê Hoàn đã làm đúng như thế. Cả triều đình rất khâm phục ông, còn Phạm Cự Lượng lại càng kính trọng ông bội phần. Thế rồi ngay lúc đó, Phạm Cự Lượng bước ra, tuyên bố cùng các võ tướng, các binh sĩ đang tề tựu đông đủ: - Tôi xin có lời để ba quân cùng hay? Thưởng người có công, giết kẻ vi mệnh, đấy là phép hành binh. Nay chúa thượng ấu thơ, chúng ta tuy hết sức liều chết chống giặc ngoại xâm, may mà có chút công lao thì ai biết đến cho? Chi bằng trước hết ta hãy tôn quan thập đạo tướng quân lên làm Thiên tử, rồi sau sẽ phát binh cũng không muộn. Tiếng ông Phạm dứt lời, tất cả các võ tướng, quân sĩ đều náo nức tung hô: Vạn tuế! Vạn tuế? Các quan văn võ trong triều ngơ ngác một phút, rồi cũng đều tung hô theo. Lê Hoàn chắc cũng xúc động bởi giây phút này, nhưng ông vẫn cảm thấy bất ngờ. Lần đầu tiên, chàng thanh niên dù đã từng trải cuộc đời mà vẫn cảm thấy lúng túng. Ông nhìn lên ngai vàng, chỗ của Đinh Toàn đang ngồi, rồi liếc sang chiếc ghế của Dương Hậu. Bà Dương cũng lúng túng một phút. Một niềm vui dâng lên trong tâm trí, bà cảm thấy như quân sĩ và trăm quan đã cởi được cho bà một sự bế tắc ấp ủ lâu nay. Thoáng nhận ra nguy tình thế, hợp với lòng mình, bà tán thành ý kiến suy tôn của mọi người. Đúng, họ nghĩ như vậy là phải. Đứa con ta tuy được nối ngôi, nhưng còn quá bé bỏng, không thể đảm đương được quốc gia Đại sự. Lê Hoàn mới là người xứng đáng ngự trị ngai vàng. Có Lê Hoàn, mới giữ vững đất nước trước họa xâm lăng. Có Lê Hoàn, binh sĩ mới giữ vững được niềm tin. Không nên cứ khư khư theo một xu hướng ích kỷ hẹp hòi, để giữ tiếng cho nhà Đinh ở ngôi hư vị. Và nếu Lê Hoàn trở thành thiên tử, địa vị của chàng khác đi, quan hệ giữa chàng với ta cũng sẽ là thuận lợi. Nghĩ đến điều này, Dương Hậu cảm thấy có chút ngượng ngùng bẽn lẽn. Nhưng bà trấn tĩnh được ngay. Bà giơ tay ra hiệu cho một người cung nữ. Cô này hiểu ngay ý của bà, vội vàng chạy vào lấy chiếc áo long bào đem ra. Dương Hậu nói nhỏ với Đinh Toàn rồi quay lại, bước tới gần Lê Hoàn, khoác chiếc áo long bào lên vai ông: Lòng quan quân đã quyết. Kính xin chàng (tiếng chàng, Dương Hậu nói rất khẽ) chính vị ngôi tôn! Quả nhiên, sự tính toán của Lê Hoàn là hoàn toàn chính xác. Quân Tống thất bại thảm hại, không chờ lệnh vua đã phải vội vàng rút chạy. Vua Tống trút tất cả tội lỗi lên đầu bọn tướng tá: Lưu Trừng, Giả Thực bị giết ở chợ Ung Châu. Tôn Toàn Hưng bị bắt về triều hạ ngục rồi cũng bị giết. Cuộc kháng chống Tống của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đã hoàn toàn thắng lợi. Mặc dầu đã lên ngôi vua, và cũng đã bước sang giai đoạn tứ tuần, Lê Hoàn phải mang mũ áo: hoàng bào, long cổn, phải giữ một vẻ bề ngoài trịnh trọng như những con người đứng tuổi, nhưng phong thái của con người thanh niên trong ông, vẫn giữ nguyên giá trị. Ông luôn luôn tỏ ra linh hoạt, vui vẻ hòa mình với mọi người. Ông ứng phó nhanh nhẹn, lúc nào cũng sôi nổi và hào hứng. Ngay cả khi bước vào những nghi lễ ngoại giao, thù tiếp với các sứ giả nước ngoài, ông vẫn giữ tư thế ngang tàng, đôi khi cũng không cần giữ gìn tiểu tiết. Không những quí trọng lớp trí thức là những nhà sư, Lê Hoàn cũng có con mắt biệt đãi đối với những con người tài năng khác, kể cả những người nước ngoài, không có tư tưởng kỳ thị. Ông vẫn đóng đô ở Hoa Lư như vua Đinh trước kia. Ông cho xây dựng nhiều cung thất. Tất nhiên việc xây dựng này đã phải chi phí rất nhiều tiền của, có phần xa xỉ, nhưng mặt khác cũng phải thấy là Lê Hoàn rất muốn cho kinh đô và cho nơi vua ở, phải được bề thế, trang trọng, khiến cho nhân dân và khách nước ngoài phải trầm trồ, thán phục, do đó mà tôn vinh uy thế của vương triều ông. Điều đặc biệt là Lê Hoàn rất chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi vì ông từ nhân dân mà ra, ông đã cố gắng giữ gìn lấy những khuynh hướng tâm linh, khuynh hướng thẩm mỹ mà người nước Việt bảo lưu sâu sắc. Ông là một trong những nhà vua đầu tiên, lấy lễ để thờ Phù Đổng thiên vương, muốn bắt chước truyền thuyết các vua Hùng Vương đề cao anh hùng dân tộc. Không có một tài liệu nào viết một cách rõ ràng và cụ thể về đời sống tình duyên của Lê Hoàn như thế nào. Ta chỉ biết Lê Hoàn cũng như vua Đinh, có rất nhiều vợ, đều được phong làm Hoàng hậu, trong đó có bà Đại Thắng Minh Hoàng hậu, tức là Dương Hậu, vợ cũ của Đinh Bộ Lĩnh. Vua Đinh mất, Dương Hậu có cảm tình với Lê Hoàn, đã khoác áo hoàng bào lên vai ông để dựng vương triều nhà Lê. Năm Ất Tị (1005) vua Lê Hoàn mất thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm. Lê Trung Tông (1005) Vua Lê Đại Hành có 4 hoàng tử là Long Du, Ngân Tích, Trung Tông Long Việt và Lê Long Đĩnh (Ngoạ Triều). Vua Đại Hành đã định cho người con thứ ba là Long Việt làm Thái tử. Nhưng đến lúc vua mất, các hoàng tử tranh nhau ngôi, đánh nhau trong 7 tháng. Đến khi Long Việt vừa lên ngôi được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết chết, thọ 23 tuổi. Sử gọi là Lê Trung Tông. Lê Long Đĩnh (1005-1009) Niên hiệu: Ứng Thiên (1006-1007) Cảnh Thụy (1008-1009) Long Đĩnh là người bạo ngược, tàn ác như Kiệt, Trụ ở bên Tàu. Khi đã giết anh, chiếm được ngôi vua, Long Đĩnh càng tàn bạo. Vua hay lấy việc giết làm trò chơi. Có những tội nhân phải tội hình, vua cho lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt cho chết. Có trường hợp vua cho tù trèo lên cây cao rồi sai người chặt gốc cây đổ. Vua còn bỏ ngưòi vào sọt rồi đem thả xuống sông. Vua thích chí ngồi xem đao phủ thực hiện mệnh lệnh ác độc của mình. Có lần vua lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ, thỉnh thoảng vờ nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu, trông thấy thế vua thích thú vui cười. Vào các buổi chầu, vua cho tên hề nói khôi hài, hay nhại lại lời tâu bầy của các đại thần để gây cười. Vì sống dâm dục quá độ, vua mắc bệnh không ngồi được. Bởi vậy đến buổi chầu, vua cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngoạ Triều. Long Đĩnh làm vua được 2 năm đổi niên hiệu là Cảnh Thụy. Năm sau (1009) thì mất, làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi. Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé, đình thần nhân dịp tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, khởi dựng sự nghiệp triều Lý hiển hách. Added (2009-02-14, 11:22 Am) --------------------------------------------- 10. Triều Lý (1010 - 1225) sự phát triển của quốc gia phong kiến độc lập Lý Thái Tổ (1010-1028) Niên hiệu: Thuận Thiên Người khởi dựng triều Lý là Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, (Từ Sơn, Bắc Ninh) Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất (974), là con nuôi của thiền sư Lý Khánh Văn từ năm 3 tuổi và truyền thuyết vẫn cho rằng ông là con của Vạn Hạnh, anh ruột Khánh Văn. Cũng theo truyền thuyết, ông thân sinh ra Lý Công Uẩn nhà nghèo đi làm ruộng thuê ở chùa Tiên Sơn (An Phong, Bắc Ninh) phải lòng một tiểu nữ rồi làm nàng có thai Nhà sư thấy thế đuổi đi nơi khác. Hai vợ chồng dẫn nhau đến khu rừng Báng mệt mỏi, dừng lại nghỉ. Chồng khát nước, đến chỗ giếng nước giữa rừng uống, chẳng may sẩy chân chết đuối. Vợ chờ lâu không thấy, đến xem thì đất đã đùn lấp giếng. Người phụ nữ bất hạnh than khóc một hồi rồi xin vào ngủ nhờ ở chùa Ư'ng Tâm gần đấy. Sư trụ trì chùa Ư'ng Tâm đêm trước nằm mơ thấy Long thần báo mộng rằng: "Ngày mai dọn chùa cho sạch có Hoàng đế đến". Tỉnh dậy, nhà sư sai chú tiểu quét dọn sạch sẽ, túc trực từ sáng đến chiều chỉ thấy một người đàn bà có thai xin ngủ nhờ. Được vài tháng bỗng có chuyện lạ: Một đêm khu tam quan của chùa sáng rực hẳn lên, hương thơm ngào ngạt lan toả. Nhà sư cùng bà hộ chùa ra xem thì thấy người đàn bà ấy đã sinh một con trai, hai bàn tay có bốn chữ son "sơn hà xã tắc". Sau đó, trời bỗng nổi trận mưa to gió lớn, mẹ chú bé chết ngay khi sinh con và chú bé được nhà chùa nuôi nấng. Khi 8, 9 tuổi nhà sư cho chú bé theo học sư Vạn Hạnh ở chùa Tiên Sơn. Chú bé đó là Lý Công Uẩn. Tượng vua Lý Thái Tổ Công Uẩn lớn lên tỏ rõ có chí lớn khác thường. Ông đến Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lên đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Khi vua Thiếu Đế bị giết, ông ôm thây vua khóc. Vua Ngoạ Triều khen là trung, cử ông làm Tả tướng quân chế chỉ huy sứ, thống lĩnh hết quân túc vệ. Theo truyền thuyết, làng Cổ Pháp h ồi ấy có cây gạo cổ thụ bị sét đánh tước lần vỏ ngoài lộ ra mấy câu sấm. Sư Vạn Hạnh xem cấu sấm ấy biết điềm nhà Lê đổ nhà Lý sắp lên bèn bảo Công Uẩn rằng: - Mới rồi tôi thấy lời phù sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay. Người đứng đầu muôn dân chẳng phải ông thì còn ai? Sợ câu nói ấy tiết lộ, Lý Công Uẩn phải nhờ người đem giấu Vạn Hạnh ở chùa Tiên Sơn. Khi Lê Long Đĩnh mất, Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Vua kế tự Long đĩnh còn nhỏ, Lý Công Uẩn chỉ huy quân túc vệ trong cuốn cung cấm. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Lê nên quan Chi hậu là Đào Cam Mộc cùng các quan trong triều tôn Lý Công Uân lên ngôi hoàng đế tức vua Thái Tổ nhà Lý. Vua Thái Tổ thấy Hoa Lư hẹp bèn dời đô về La Thành. Tháng 7 năm Thuận Thiên nguyên niên (1010) vua khởi sự rời đô. Khi ra đến La Thành, Thái Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên liền đổi Đại La thành Thăng Long thành (tức Hà Nội bây giờ), đổi Hoa Lư thành phủ Tràng An và Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức. Vua Thái Tổ chỉnh đốn việc cai trị, chia nước làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và A'i Châu là trại. Vốn thông minh bẩm sinh, lại được nhập thân văn hoá ở một vùng đất văn minh, văn hiến, lại được sự nuôi dạy của những vị cao tăng xuất chúng, Lý Công Uẩn thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh nước Đại Việt, viết nên những trang sử oanh liệt dựng nước và giữ nước. Chùa Ư'ng Tâm nơi ông sinh ra bây giờ có tên là chùa Dặn. Ngôi huyệt chỗ giếng nước ở rừng Báng năm xưa, những gò ở xung quanh trông giống như hoa sen nở 8 cánh nên nhà Lý truyền ngôi được 8 đời. Vua Lý Thái Tổ trị vì 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi. Lý Thái Tông (1028-1054) Niên hiệu: - Thiên Thành (1028-1033); - Thống Thuỵ (1034-1038); - Càn Phù Hữu Đạo (1039-1041); - Minh Đạo (1042-1043); - Thiên Cảm Thánh Võ (1044-1048); - Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054) Sau khi vua Lý Thái Tổ mất con trưởng của ông là Lý Phật Mã (còn có tên khác là Lý Đức Chính) lên thay gọi là vua Lý Thái Tông, ông lên lên ngôi đúng vào tuổi thanh niên cường tráng: 28 tuổi (ông sinh năm 1000, lên ngôi năm 1028). Anh em trong gia đình vua Lý Thái Tổ cũng khá đông. Vì vậy, vua Lý Thái Tổ vừa mất chưa làm lễ tế táng, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương đã mang quân bản bộ đến vây thành để tranh ngôi của Thái tử. Phật Mã biết âm mưu của mấy người em phản loạn ấy. Ông vội vàng tổ chức việc phòng giữ cung cấm, rồi cho gọi các tướng tá thuộc hạ của mình vào bàn cách đối phó. Sau khi dẹp xong loạn ông chính thức lên ngôi lấy niên hiệu Thiên Thành khi ông vừa tròn 28 tuổi. Ông đã tham gia nhiều trận chiến với những chiến công chói lọi, mang lại sự bình yên thịnh vượng cho dân chúng. Ông cho xây dựng chùa Một Cột năm 1049, ông còn dạy cung nữ dệt gấm vóc để dùng và không dùng vải của nước Tống nữa. Vua Lý Thái Tông trị vì được 27 năm, đến năm Giáp Ngọ (1054) thì mất thọ 55 tuổi. Tượng thờ vua Lý Thái Tông Lý Thánh Tông (1054-1072) Niên hiệu: - Long thuỵ Thái Bình (1054-1058) - Chương thánh Gia Khánh (1059-1065) - Long chương Thiên tự (1066-1967) - Thiên chức Bảo Tượng (1068) - Thần võ (1069-1072) Vua Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn con trai vua Lý Thái Tông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quí Hợi (1023). Khi vua Lý Thái Tông mất ông lên ngôi ở tuổi 31. Ông đã theo cha chinh chiến nhiều nơi và lập nhiều chiến công xuất sắc. Ông có một tấm lòng vị tha trung hậu, ân xá cho nhiều kẻ tù tội không đáng tội, cho xây dựng nhiều chùa chiền. Thời Ông trị vì Ông đặc biệt chú trọng công việc chính trị, an dân, trọng nông, lưu tâm đến việc phòng bị đất nước và phát huy thanh thế quân uy của mình đối với nước ngoài. Ông lập Hoàng hậu là Nguyên Phi Ý Lan, năm Nhâm Thân (1072) vua Lý Thánh Tông chết đột ngột, trị vì được 17 năm, thọ 50 tuổi. Lý Nhân Tông (1072-1127) Niên hiệu: - Thái Ninh (1072-1075) - Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084) - Quảng Hữu (1085-1091) - Hội Phong (1092-1100) - Long Phù (1101-1109) - Hội Tường Đại Khánh (1110-1119) - Thiện Phù Duệ Võ (1120-1126) - Thiên Phù Khánh Thọ (1127) Lý Nhân Tông có tên gọi là Lý Càn Đức con của vua Lý Thánh Tông và Nguyên Phi Y' Lan, sinh ngày 25 tháng giêng năm Bính Ngọ (1066), vua Lý Thánh Tông mất sớm khi Càn Đức mới 7 tuổi. Lý Nhân Tông lên ngôi năm 1072 vì ít tuổi nên phải nhờ sự giúp đỡ của mẹ là Thái Phi Ý Lan. Đến tuổi trưởng thành, Ông bộc lộ nhiều khả năng chính trị, chú trọng người tài giỏi đưa vào Viện Hàn lâm. Ông còn rất quan tâm đến vấn đề nông nghiệp nên cho đắp đê phòng chống lũ lụt. Có một điều không vui đối với vua Lý Nhân Tông là ông không có con trai. Lý Nhân Tông làm vua đến năm 1127 thì mất trị vì được 56 năm, thọ 63 tuổi. Lý Thần Tông (1128-1138) Niên hiệu - Thiên Thuận (1128-1132) - Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137) Vua Lý Nhân Tông khồng có con trai, lập con của Hoàng Đệ là Sùng Hiền hầu Dương Hoán lên làm thái tử nay kế vị ngôi Hoàng Đế tức là Vua Thần Tông. Thần Tông vừa lên ngôi liền đại xá cho các tù phạm và trả lại ruộng đất tịch thu của quân dân ngày trước. Vua thực hiện chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính đổi phiên cứ lần lượt 6 tháng một lần được về làm ruộng. Do vậy sản xuất nông nghiệp phát triển. Dân no đủ nên giặc giã cũng ít. Thần Tông làm vua được 10 năm, thọ 23 tuổi. Lý Anh Tông (1138-1175) Niên hiệu: - Thiệu Minh (1138-1139) - Đại Đinh (1140-1162) - Chính Long Bảo Ư'ng (1163-1173) - Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175) Vua Lý Anh Tông là con trai vua Lý Thần Tông kế vị ngôi vua khi mới 3 tuổi. Bởi vậy, Thái hậu Lê Thị cầm quyền nhiếp chính. Lê Thái hậu lại tư thông với Đỗ Anh Vũ, nên mọi việc lớn nhỏ trong triều đều nằm trong tay vị đại thần họ Đỗ này cả. May thay triều đình lúc đó có nhiều tôi giỏi như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên tham vọng của Đỗ Anh Vũ bị chặn lại. Tô Hiến Thành giúp vua đánh Đông dẹp Bắc, giữ cho nước được yên mà còn luyện tập quân lính kén chọn những người tài giỏi cho làm tướng, coi quân trị dân. Bởi vậy, nước Đại Việt hồi ấy trở nên hùng mạnh. Vua Anh Tông mất (1176), trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi, đổi niên hiệu 4 lần Lý Cao Tông (1176-1210) Niên hiệu: - Trịnh Phù (1176-1185) - Thiên Tư Gia Thuỵ (1186-1209) - Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1204) - Trị Bình Long Ư'ng (1205-1210) Vua Lý Cao Tông (tên gọi là Lý Long Cán) con thứ của vua Anh Tông lên ngôi lúc 3 tuổi (năm 1176). Khi còn bé được người hiền tài là Thái Uý Tô Hiến Thành giúp đỡ, về sau do bị bệnh Tô Hiến Thành mất (lúc đó Lý Long Cán mới được 6 tuổi) triều đình đã không nghe lời ông trong việc sử dụng người. Triều đình bắt đầu suy. Khi Lý Cao Tông trực tiếp cầm quyền trị nước thì tình hình đổi khác, từ chỗ là một cậu bé thiếu niên hiền lành thông minh, Cao Tông bỗng trở nên ham mê săn bắn, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ phải phục dịch khổ sở, nạn trộm cướp nổi lên như ong. Năm 1208 bọn côn đồ nổi loạn cướp phá của dân, vua Cao Tông sai Phạm Bỉnh Di đi dẹp loạn, sau đó lại nghe lời dèm pha mà giết Bỉnh Di. Bọn tay chân của Bỉnh Di tức giận, nổi loạn cướp quyền, Vua phải bỏ trốn lên vùng sông Thao. Về sau con trai Cao Tông là Lý Sảm rước vua về kinh được một năm thì mất (1210), Ông trị vì được 35 năm thọ 38 tuổi. Lý Huệ Tông (1211-1225) Niên hiệu: Kiến Gia Vua Lý Huệ Tông tức Lý Sảm, con trai vua Lý Cao Tông, Ông kế vị ngôi vua lúc 17 tuổi (năm 1211). Sinh thời vua Lý Cao Tông đã rất bê tha, đất nước lúc này lại đang suy đồi, vua Huệ Tông nếu biết phát huy tài năng thì sẽ có nhiều hứa hẹn. Nhưng khi ông lên ngôi lại chỉ lo lắng cho mối tình đầu của mình, chứ không chú ý gì đến việc quốc gia đại sự. Đàm Thái Hậu mẹ vua Huệ Tông hắt hủi Nguyên phi Trần Thị Dung là vợ vua Huệ Tông. Sau đó vua và Nguyên phi phải trốn đi nửa năm sau mới về lại cung (năm 1216), lúc này Đàm Thái Hậu không dám ngăn trở mối tình này nữa, Trần Thị Dung được phong làm Hoàng hậu tháng 12 năm 1216. Nhưng mối tình mặn nồng ấy không được lâu dài. Từ ngày Trần Thị Dung trở thành Hoàng hậu, vua lại bị mắc bệnh trúng phong, chữa mãi không khỏi ông dần dần phát điên (năm 1217). Anh của Trần Thị Dung là Trần Tự Khánh đang giữ chức Thái Uý cho nhà vua đã tìm cách đưa anh em bà con họ Trần vào chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong triều và trong quân. Trần Thủ Độ được vào coi sóc đạo quân. Trần Thừa cũng được giao những nhiệm vụ lớn. Khi Trần Tự Khánh mất thì Trần Thừa được cử làm Phụ quốc thái uý, ngày đêm hỗ trợ cho Lý Huệ Tông coi sóc chính sự. Lý Huệ Tông vẫn mang trọng bệnh, các danh y có tiếng cũng đành bó tay. Ông không có con trai (Hoàng hậu chỉ sinh được hai người con gái) đành phải truyền ngôi cho công chúa Chiêu Thánh (con thứ hai) khi nàng mới được 8 tuổi. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) Lý Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh rồi vào tu tại chùa Chân giáo trong đại nội, lúc tỉnh, lúc mê. Có lần ông ngồi nhổ cỏ trước chùa Trần Thủ Độ đi qua, bảo với ông rằng " Nhổ cỏ thì phải nhổ cả gốc". Ông hiểu ý ngay quay vào tự tử, năm ấy ông 33 tuổi trị vị được 14 năm. Lý Chiêu Hoàng (1225) Niên hiệu: Thiên Chương Hữu Đạo Tên thật của nàng là Phật Kim còn có tên là Chiêu Thánh nàng sinh vào tháng 9 năm Mậu Dần (1218). Chiêu thánh công chúa lên ngôi năm Giáp Thân (1224) tức là Lý Chiêu Hoàng. Vua còn nhỏ nên quyền binh ở cả Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ đưa Trần Cảnh là con thứ hai của Trần Thừa, lúc đó mới lên 8 tuổi cùng tuổi với Lý Chiêu Hoàng, Chiêu Hoàng thấy Trần Cảnh đem lòng mến yêu. Ngày 21 tháng 10 năm Â't Dậu (1225) có chiếu của Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, ngày 11 tháng 12 năm Â't Dậu (1225) Chiêu Hoàng thiết Triều ở điện Thiên An ngự trên giường báu, các quan mặc triều phục lạy ở sân rồng. Chiêu Hoàng trút bỏ áo ngự, khuyên mời Trần Cảnh lên ngôi vua. Sau 3 lần nhún nhường làm phép, Trần Cảnh ngồi lên ngai vàng chính thức làm Hoàng Đế. Lấy nhau hơn chục năm Chiêu Hoàng vẫn không sinh nở gì. Trần Thủ Độ lo vua Thái Tông Trần Cảnh tuyệt tự, bèn đem Thuận Thiên chị ruột của Chiêu Hoàng (đang là vợ của Trần Liễu đang có mang) ép gả cho Trần Cảnh. Sau đó, Thủ Độ ép Trần Cảnh phế bỏ Chiêu Hoàng lập Thuận Thiên làm Hoàng Hậu. Chiêu Hoàng đau khổ, ẩn trong cung sâu, toan dứt nợ trần tục. Nhưng 20 năm sau, khi Chiêu Hoàng tròn 40 tuổi, mùng một Tết năm Mậu Ngọ (1258), sau khi đánh tan cuộc xâm lược của quân Nguyên lần thứ nhất, vua Thánh Tông Trần Cảnh đặt đại lễ ở chính điện, có lệnh gả Chiêu Hoàng cho Lê Phụ Trần, một đại tướng có công lớn trong cuộc đại chiến vừa qua. Lần này Chiêu Hoàng tìm thấy hạnh phúc thực sự, bà sinh hai người con: Lê Tông sau được phong tước Thượng Vị Hầu và Ngọc Khê sau được phong là Ư'ng Thuỵ công chúa. Chiêu Hoàng mất năm 60 tuổi. Tương truyền tóc bà vẫn đen, môi vẫn đỏ như son, đôi má vẫn một màu hoa đào. Như vậy Triều Lý tồn tại trong 215 năm thì tan rã. Trải qua 9 đời vua Điện thờ các vua Lý Added (2009-02-14, 11:25 Am) --------------------------------------------- Lý Thái Tông (1028-1054) Vua Lý Thái Tông tên là Lý Phật Mã và có tên khác là Lý Đức Chính, là con trai trưởng của vua Thái tổ Lý Công Uẩn, lên ngôi vào đúng tuổi thanh niên cường tráng: 28 tuổi (ông sinh năm 1000 lên ngôi năm l028). Người thời bấy giờ thường hay truyền tụng những sự việc lạ lùng về con người này và về những chuyện lạ xảy ra trong tuổi thiếu thời của ông. Họ nói rằng sau gáy ông có đến 7 cái nốt ruồi tụ lại như chòm sao thất tinh (Sao Bắc Đẩu). Như thế là ông có tướng lạ. Lúc bé, chơi đùa với bọn trẻ trong cung, ông thường bắt chúng dàn hàng tả hữu trước sau để làm quân hầu hộ vệ cho mình. Ông cho một vị đạo sĩ cái áo. Đạo sĩ treo cái áo trong quán, nửa đêm thấy rồng vàng hiện ra. Người ta tin rằng đó là điềm báo hiệu ông rất xứng đáng nối ngôi thiên tử. Ở đền Đô,tượng Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông đặt cạnh nhau, ngang nhau trong gian chính giữa, các vị vua khác ở hai bên Nhà vua Lý Công Uẩn cũng rất chú ý đến người con trai của mình và có ý thức gây dựng cho con ngay từ khi mới trưởng thành. Ông cho Phật Mã được chính thức có danh hiệu là Đông Cung Thái tử, phong làm Khai Thiên vương, lập phủ ở phía ngoài nội cung để phật Mã được làm quen với các quan lại và dân chúng. Lúc ấy, Phật Mã mới có 13 tuổi (1012) . Năm 20 tuổi, Phật Mã đã được giao làm nguyên soái, cầm quân vào Nam đánh Chiêm Thành, tiến mãi đến núi Long Tị (nay thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình). Năm 24 tuổi, lại cầm quân đi đánh Phong Châu. Hai năm sau, đi đánh Diễn Châu. Năm 1027 lại lên phía Bắc, đánh châu Thát Nguyên (nay là huyện Tràng Định, Lạng Sơn). Suốt thời gian ở tuổi thanh niên, Lý Phật Mã đã được rèn luyện trên trường chinh chiến và đã bộc lộ tài năng thao lược của mình: đánh đâu thắng đó . Ông đã là võ tướng trước khi là Hoàng đế. Năm Mậu Thìn ( 1028) vua Lý Thái Tổ mất. Theo đúng di chiếu thì Đông cung Thái tử Lý Phật Mã được lên ngôi. Anh em trai trong gia đình Lý Công Uẩn cũng khá đông, và người nào cũng có tài vũ dũng. Khi còn sống, Lý Thái Tổ không chỉ giao cho Phật Mã đi chỉ đạo các chiến dịch, mà các em của Phật Mã cũng đều được cho đi lập các chiến công. Vì vậy, Vua Thái Tổ vừa mất chưa làm lễ tế táng, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương đã mang quân bản bộ đến vây thành để tranh ngôi của Thái tử. Đông Chính Vương phục ở Long Thành, Dực Thánh Vương và Võ Đức Vương phục cửa Quảng Phúc. Họ quyết chờ khi Phật Mã xuất hiện thì cùng xông ra đánh úp, nếu thắng lợi thì tính đến việc chia quyền cho nhau. Phật Mã biết âm mưu của mấy người em phản loạn ấy. Ông vội vàng tổ chức việc phòng giữ cung cấm, rồi cho gọi các tướng tá bộ hạ của mình vào bàn cách đối phó. Ông không muốn giữa lúc vua cha từ trần, anh em một nhà lại quay ra xung đột, tranh giành quyền lực với nhau. Ông nói: Ta lấy làm xấu hổ là tiên đế mới mất chưa quàn, mà cốt nhục đã giết nhau, há chẳng để cho, muôn đời chê cười sao? Thực hiện ý định của mình, ông cho người ra khuyên các em nên hạ khí giới, cùng vào chịu tang cha, thực hiện di chiếu, không nên gây bạo loạn. Nhưng ba vị vương tử kia nhất định không nghe. Họ vẫn tiếp tục bao vây cung điện, xua quân tràn vào gấp gáp và mãnh liệt. Lý Phật Mã vừa lo vì nhiệm vụ, vừa buồn vì tình anh em, không biết giải quyết thế nào. Những tướng tá tâm phúc của ông đều ào lên, nhất định đòi ông phải đích thân ra tay trừng trị bọn phản nghịch. Có người nói: - Không nghĩ nghĩa cha con, không nghĩ tình cốt nhục, chỉ chăm chăm việc cướp ngôi, những người như thế đã trở thành giặc rồi, sao có thể xem là anh em được nữa? Lý Phật Mã vẫn kiên trì: - Ta muốn thuyết phục các vương cho họ tự ý rút quân thì họ sẽ không gây ra tội ác, chứ kéo quân ra giao chiến với nhau thì còn mặt mũi nào! Thấy Lý Phật Mã cứ dùng dằng mà quân tướng của ba hoàng tử kia thì đánh vào cung gấp lắm, các tướng Lê Nhân Nghĩa, Quách Thịnh, Dương Bình.v.v... cùng đứng lên, kiên quyết giục phải ra quân. Trước tình thế này Lý Phật Mã không biết làm thế nào. Ông lắc đầu nói : - Ta chỉ đành vào làm lễ thành phục trước linh cữu của tiên đế thôi, mọi việc làm thế nào do các tướng định liệu lấy. Ông vừa dứt lời một võ tướng đã rút gươm chạy như bay ra ngoài cung, xông thẳng vào chỗ Võ Đức Vương đang đứng. Viên tướng ấy thét lên: -Các hoàng tử muốn tranh giành ngôi báu, không nghĩ đến Hoàng đế vừa lâm chung, không vâng lời di chiếu, rõ ràng đã là quân phản nghịch. Tôi xin dâng các ngài thanh kiếm này. Lưỡi kiếm vung lên, đầu Võ Đức Vương đã rơi xuống. Bọn tướng sĩ của phe phản nghịch bỏ chạy tán loạn. Mấy đội phục binh khác cũng hoảng hốt, vội vàng tháo lui, bị giết vô số . Hai hoàng tử kia là Đông Chính Vương và Dực Thánh Vương đều trốn được. Viên tướng ấy chính là Lê Phụng Hiểu, người Băng Sơn (thôn Bưng, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Lý Phật Mã rất cảm ơn các tướng. Ông lên ngôi đã thưởng cho tất cả mọi người. Riêng Lê Phụng Hiểu được một đặc ân. Về quê nhà mình, Lê Phụng Hiểu đứng trên núi Băng Sơn quăng con dao ra. Dao rơi xuống đâu, thì ông được lấy đất ở đó làm nơi lập nghiệp của mình. Dao ném xa đến hơn mười dặm, ruộng thưởng cho Lê Phụng Hiểu kéo dài đến thôn Đa Mi, lệ thưởng này gọi là lệ thác đao điền, bắt đầu từ sự việc này. Phật Mã chính thức lên ngôi, lấy niên hiệu là Thiên Thành khi ông vừa tròn 28 tuổi. Thấy tình hình mưu phản vừa qua của bọn em út mình, Lý Phật Mã nghĩ ngay đến việc phải có một hình thức thích hợp, một hiệu pháp tâm linh để ràng buộc mọi người, cố kết nhân âm. Và đây là việc làm đầu tiên của ông khi vừa lên ngôi báu. Ông cho dựng miếu thờ thần Đồng Cỏ (vị thần trống đồng ở núi Đan-nê Thanh Hóa). Miếu đặt ở bên hữu thành Đại La, sau chùa Thánh Thọ (Yên Thái-Hà Nội). Vua cho đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị đọc lời thề rằng: "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu, bất trung xin thần làm tội". Các quan từ cửa đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, từ đó thành lệ, hàng năm vào dịp đầu xuân, vua quan các triều đại đều phải dự lễ thề này. Đã trở thành vua, sử gọi ông là Lý Thái Tông, song ông vẫn tiếp tục phát huy sở trường chiến đấu của mình. Suốt 27 năm ở ngôi - khi mất chưa vào lớp người sáu chục tuổi, ông sẵn sàng thân chinh ra nhiều mặt trận. Năm 33 tuổi, ông đi đánh Châu Định Nguyên, năm 35 tuổi đánh Châu ái, năm 39 tuổi đánh Nông Tồn Phúc, năm 42 tuổi đánh Nùng Trí Cao, năm 44 tuổi vào tận phía Nam đánh Chiêm Thành. Mỗi lần đánh trận, là mỗi lần ông ghi thêm những chiến công chói lọi. Trong cuộc sống ông luôn luôn tỏ ra là một con người trẻ trung với phong cách và đức tính của một thanh niên. Người ta thường nghĩ rằng tuổi trẻ là tuổi thường độ lượng hào phóng. Nếu điều đó đúng, thì quả là hợp với Lý Thái Tông. Sử sách ngày xưa cho rằng vào thời kỳ đạo Phật đang được thịnh hành ở nước ta nên nhiều ông vua đã thiên về nhân đạo, về lòng từ bi mà có những việc làm nhân nghĩa khiến cho người đời sau phải khâm phục. Lý Thái Tông thực sự là một ông vua có một tấm lòng bao dung, nhân hậu đối với anh em, bạn bè và cả đối phương nữa. Vừa có tấm lòng bao dung, ông luôn chú ý đến luật pháp để giữ vững kỷ cương nề nếp. Đặc biệt, vào thế kỷ XI, Lý Thái Tông đã chú ý đến luật pháp và cho hình thành văn bản hẳn hoi: Sử ghi rõ việc ban Hình luật: "Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Ông biết tìm kiếm những người phò tá trung thành, do đó mới thu hoạch được nhiều thắng lợi. Cũng trong biện pháp dùng người, có thể nói Lý Thái Tông thực sự là sáng suốt. Những viên quan được ông sử dụng, không ai lơ là trách nhiệm của mình, và đều giúp cho ông thành công trong mọi chủ trương. Sử còn chép một sự kiện chứng tỏ ông nhận xét người rất tài tình sáng suốt. Một viên tướng trong kinh có âm mưu làm phản. Ông quan sát người này và ngầm nói với các phi tần rằng người ấy thể nào cũng làm phản. Quả nhiên, sau chiến dịch ở ái Châu, viên quan có tên là Nguyễn Khánh ấy đã cùng với đồng đảng lộ rõ hình tích, đều bị ông bắt giam trị tội, các phi tần đều ca ngợi Lý Thái Tông: "Thánh nhân thấy được chỗ chưa hiện hình, biết trước việc chưa xảy ra, nay chính nhà vua cũng như bậc thánh ấy". Tuổi thanh niên là tuổi yêu văn nghệ, giàu sáng tạo . Ông vua trẻ Lý Thái Tông cũng không kém mọi người về phương diện này. Sử có chép là khi đánh Chiêm Thành thắng trận, nhà vua rút quân về có đem theo các cung nữ nước này thành thạo hát múa khúc điệu Tây Thiên. Chưa rõ những điệu ca vũ này như thế nào, nhưng Tây Thiên là danh từ riêng chỉ ấn Độ. Đến nước người, biết học tập nghệ thuật của người - dù nước ấy là nước chiến bại, - đó là một thái độ, một quan niệm đúng. Sau này, ảnh hưởng nhạc Chiêm Thành vào Việt Nam sẽ được đậm hơn, và giờ đây ta còn phải ra công tìm hiểu, nhưng công lao trước nhất là phải kể từ Lý Thái Tông với những bước đi ban đầu. " Công lao đối với nghệ thuật Việt Nam của Lý Thái Tông, không chỉ dừng ở đó. Giờ đây, chúng ta thường nhắc đến Chùa Một Cột, xem đó là một niềm tự hào của kiến trúc Việt Nam, là một biểu tượng của những nét diệu kỳ đất Việt. Không nên quên rằng, Chùa Một Cột được xây dựng là do sáng kiến của Lý Thái Tông. Nhà vua kể rằng, -trong một giấc chiêm bao, ông thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên tòa. Sau đó vua đã cho dựng cột đá, làm tòa sen đặt lên như đã thấy trong mộng. Cột đá tòa sen ấy đã trở thành ngôi chùa, lúc đó (năm 1049) được lấy tên là chùa Diên Hựu. Cứ cho giấc mộng ấy là có thật đi nữa, song từ đó mà hình dung ra cách thức của một ngôi chùa với hình dáng độc đáo ấy, thì quả là sáng tạo (Gần 100 năm sau, lần trùng tu năm 1105, ta mới đào hồ Liên Hoa đài ở chung quanh cột) . Nhưng công đầu thuộc về vua Lý Thái Tông: Sử sách còn cho biết thêm rằng, ông vua trẻ Lý Thái Tông, dù ở ngôi cao, vẫn luôn luôn gắn bó với sản xuất, với lao động. Vào năm ông 38 tuổi, tháng 2, ông ngự ở cửa Bồ Hải cày ruộng tịch điền. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày xuống ruộng. Các quan ta hữu có người can rằng: "Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế?" Vua nói: "Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?". Nói xong đẩy cày ba lần rồi thôi. Nằm giữa Thủ đô Hà Nội.,chùa Một Cột còn gọi là chùa Diên Hựu hoặc Liên Hoa Đài , được xây dựng năm 1049 bởi vua Lý Thái Tông. Vào năm 1040, ông dạy cho cung nữ dệt được gấm vóc. "Tháng ấy, (tức là tháng hai cùng năm) xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc". Phát hết như vậy, để trong kho không còn vải vóc ngoại quốc nữa, từ nay chuyên dùng vải của nước mình, không dùng gấm vóc của nước Tống nữa. Cả hai việc trên đây, sử gia Ngô Sĩ Liên đã đánh giá rất cao. Ông cho rằng nhà vua đã nêu gương cho thiên hạ, có đức tính kiệm ước, dẫn đến dân đông, của giàu: "Trong cái tốt lại còn cái tốt nữa". Vua Lý Thái Tông trị vì được 27 năm, đến năm Giáp Ngọ (1054) thì mất thọ 55 tuổi. Added (2009-02-14, 11:32 Am) --------------------------------------------- 11. Triều Trần (1225-1400) Trần Thái Tông (1225-1258) Niên hiệu: - Kiến Trung (1225-1231) - Thiên ứng chính Bình (1232-1250) - Nguyên Phong (1251-1258) Vị vua đầu tiên của nhà Trần, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218) tại hương Tức Mặc Phủ Thiên Trường, nay là thôn Tức Mặc xã Lộc Vượng ngoại thành Nam Định. Ông có tên thật là Trần Cảnh con trai Trần Thừa, cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú. Việc lên ngôi của Ông do tài sắp đặt của Trần Thủ Độ mà nên, lúc ấy ông mới tròn 8 tuổi. Trần Thủ Độ đã thu xếp cho Trần Cảnh được làm chức chánh hậu, có tên gọi là chức Chánh thủ. Ban đầu chỉ được hầu hạ bên ngoài, sau vài lần được vào trong để bưng nước rửa cho vua. Vua lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng (Con gái vua Lý Huệ Tông, cô là vị vua sau cùng của nhà Lý). Sau nhờ Trần Thủ Độ thu xếp Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho Trần Cảnh tức là vua Trần Thái Tông. Trần Cảnh lên ngôi nhưng việc quân sự thì do Trần Thủ Độ nắm việc chính trị thì do cha làm Thượng hoàng giúp đỡ, song những người này trình độ văn hoá cũng còn nhiều hạn chế. Các quan nhà Lý ở lại phục vụ nhiều, song không thấy nói có một ai được chính thức giúp vua làm phụ chính. Vậy mà trong suốt những năm đầu ở tuổi thiếu nhi, Trần Cảnh đã được sử sách ghi chép đúng như một ông vua có tài. Để giữ vững an ninh đất nước, Trần Thủ Độ đã giúp nhà vua dần ổn định được tình hình, lợi dụng các mâu thuẫn giữa các tay quân phiệt và dần dần dẹp yên được nội loạn. Khi bước sang tuổi thành niên, Ông đã phát huy rõ rệt tài năng xuất sắc của mình. Nhưng trước khi thực sự nắm chắc quyền hành của mình, Ông đã phải chịu một nỗi đau, khiến Ông phải xót xa ân hận mà không biết phải xử trí ra sao, nguyên nhân là Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Ông đã được 12 năm mà vẫn chưa có con, trong khi triều Trần cần kíp phải có Hoàng tử. Trần Thủ Độ đã nhất quyết buộc Ông phải bỏ Chiêu Thánh lập Hoàng hậu mới là Thuận Thiên chị ruột của Chiêu Thánh, hiện là vợ của Trần Liễu (anh của Trần Cảnh) đang có mang khiến Trần Cảnh đau khổ bỏ trốn ra khỏi kinh thành lên núi Yên Tử trú ngụ (1236). Trần Thủ Độ phải trổ hết mưu mẹo mới rước được Ông về kinh. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đầu năm Đinh Tý (1-1258) vua Trần Thái Tông đã biết dựa vào Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn (tức Hưng Đạo vương, con của Trần Liễu) để lãnh đạo nhân dân Đại Việt quyết chống giặc. Tháng 12 năm Đinh Tý (1258), vua Thái Tông đã cùng Thái Tử Hoảng chỉ huy quân Tần phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long. Trần Thái Tông được sử sách lưu truyền bởi ông là một nhà Thiền học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, một cốt cách độc đáo. Lúc làm vua ông đã thân chinh đi đánh giặc, xông vào mũi tên hòn đạn, làm vua thì xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Mùa Xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho Thái Tử Trần Hoảng, triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng coi việc nước. Thái Tông làm vua được 33 năm, làm Thái Thượng Hoàng 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi. Trần Thánh Tông (1258-1278) Niên hiệu: - Thiện Long (1258-1272) - Bảo Phù (1273-1278) Vua Trần Thái Tông có 6 người con: Trần Quốc Khang (thực là con của Trần Liễu với Thuận Thiên), Trần Hoảng, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo. Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái tử Hoảng sinh năm 1240 lên nối ngôi lấy hiệu là Thánh Tông. Vua Thánh Tông sống hoà hợp thân ái với các hoàng thân, vua dốc lòng xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị. Vua quan tâm đến việc giáo hoá dân, khuyến khích việc học hành, mở những khoa thi chọn người tài và trọng dụng họ. Dưới thời ông Bộ Đại Việt ký sử, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, được Lê Văn Hưu hoàn thành năm Nhân Thân (1272). Vua còn quan tâm đến dân nghèo bằng việc ra lệnh cho các vương hầu, phò mã chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn ruộng hoang, lập trang hộ. Trang điền có từ đấy. Vì vậy, trong suốt 21 năm làm vua đất nước không có giặc giã. Nơi nơi dân chúng yên ổn làm ăn. Vua Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, nhưng rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự cho tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo cớ xâm lược của nhà Nguyên. Năm Đinh Sửu (1277) Thái thượng hoàng Trần Thái Tông mất ở phủ Thiên Trường (Tức Mạc. Năm sau đó vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm rồi về phủ Thiên Trường làm Thái thượng hoàng. Vua Trần Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái thượng hoàng được 13 năm thì mất, thọ 51 tuổi. Chân dung danh tướng Trần Quốc Tuấn Đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn Trần Nhân Tông (1279-1293) Niên hiệu: - Thiệu Bảo (1279-1284) - Trùng Hưng (1258-1293) Vua Trần Thánh Tông có 3 người con: Thiên Thuỵ công chúa, Thái Tử Khâm và Tả thiên Vương Đức Việp. Năm Kỷ Mão (1279), Thái tử Khâm Sinh nǎm Mậu Ngọ (1258) kế vị ngôi vua lấy hiệu là Nhân Tông. Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán được sử sách ca ngợi là vị anh hùng cứu nước. Thời gian Trần Nhân Tông trị vì, nước Đại Việt đã trải qua những thử thách ghê gớm, nhưng Triều đại nhà Trần dưới quyền ông quả là một thời thịnh trị. Những năm đầu cầm quyền, Trần Nhân Tông đã phải trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. Ông đã cùng vua cha Trần Thánh Tông, mở hội nghị quân sự Bình Than, phân công các tướng lĩnh đi đóng giữ những nơi hiểm yếu để chuẩn bị đỡ các mũi tiến công của địch (1282). Ông lại cùng với cha tổ chức hội nghị Diên Hồng (1284) để nhất trí trẻ già một lòng quyết đánh. Chưa bao giờ tinh thần đánh giặc ở nước ta lại phát triển mạnh như thế. Quân ta đã đại thắng tại trận Bạch Đằng (9-4-1288), đè bẹp ý đồ bành trướng của đế quốc Nguyên Mông. Chiến công này là của toàn dân, của những vị nguyên soái, đại tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão... Sau 14 năm làm vua Trần Nhân Tông truyền ngôi cho con là Anh Tông về làm Thái thượng hoàng và đi tu trở thành thuỷ tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử Việt nam. Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 tại am Ngoạ Vân núi Yên Tử. Tháp mộ vua Trần Nhân Tông Trần Anh Tông (1293-1314) Niên hiệu: Hưng Long Vua Trần Anh Tông có tên thật là Trần Thuyên được vua cha là Trần Nhân Tông truyền ngôi năm 1293 khi Ông 17 tuổi. Tuổi trẻ ham chơi nên ông không để ý đến việc triều chính chỉ lo lang thang các phố chè chén múa hát. Sau khi bị cha phát hiện và trách phạt Ông đã thay đổi tính tình trở thành con người mẫn cán, chăm chỉ, rất chú trọng việc trị nước an dân. Ông chú ý giữ gìn bờ cõi, dùng sức mạnh thị uy để những nước láng giềng không được gây hấn. Ông rất trọng dụng người hiền tài, nghiêm khắc với những thói bê tha chơi bời quá mức. Dưới triều đại của ông các quan lại đều rất xứng với chức sắc của mình, đã hoàn thành được công việc mà lại còn được lưu tiếng tốt: cương trực, thanh liêm. Anh Tông trị vì 21 năm. Ngay 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314) nhường ngôi cho con là Minh Tông, để trở thành thượng hoàng, lúc đó ông 38 tuổi. Năm Canh Thân (1320) Anh Tông mất, thọ 54 tuổi. Tượng Huyền Trân Công Chúa Bia ký tại Điện thờ Huyền Trân Công Chúa, Huế Trần Minh Tông (1314-1329) Niên hiệu: - Đại Khánh (1314-1323) - Khai Thái (1324-1329) Vua Trần Minh Tông sinh năm 1300 có tên là Trần Mạnh con vua Trần Anh Tông và bà Chiêu Hiến (con gái của Trần Bình Trọng). Vua Minh Tông có lòng nhân hậu , hay thương người nhưng xét việc chưa minh. Năm Â't Mão (1315) vua định lệ cấm người trong họ không được kiện cáo nhau. Năm Quý Hợi (1323) mở khoa thi Thái học sinh chọn người tài ra giúp nước. Nhờ biết tôn trọng kẻ sĩ nên vua Trần Minh Tông đã có dưới trướng mình những hiền thần như Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An giúp rập. Tuy nhiên do quá tin vào bọn nịnh thần, vua đã giết oan Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn, một người có công, là chú ruột đồng thời là bố vợ mình. Minh Tông làm vua đến năm Kỷ tị (1329) thì nhường ngôi cho Thái tử Vượng về làm Thái thượng hoàng. Trần Hiến Tông (1329-1341) Niên hiệu: Khai Hưu Thái tử Vượng con vua Minh Tông sinh năm Kỷ Mùi (1319), mới 10 tuổi lên nối ngôi, hiệu là Hiến Tông. Hiến Tông trị vì nhưng việc điều khiển triều chính, kể cả việc dẹp loạn Ngưu Hống ở Đà Giang, đánh quân Ai Lao xâm phạm bờ cõi đều do Thượng hoàng Minh Tông đảm nhận. Hiến Tông làm vua đến năm Tân Tị (1341) thì mất, ở ngôi được 13 năm thọ 23 tuổi. Trần Dụ Tông (1341-1369) Niên hiệu: - Thiệu Phong (1341-1357) - Đại Trị (1358-1369) Vua Hiến Tông không có con nên việc truyền ngôi báu do Thượng hoàng xếp đặt. Thượng hoàng Minh Tông có 7 con trai: Hiến Tông Vượng, Cung Túc vương Dục, Cung Định vương Trạch, Dụ Tông Hạo, Cung Tĩnh vương Nguyên Trạch, Nghệ Tông Phủ, Duệ Tông Kính. Hiến Tông mất, Thượng hoàng lập người con tên Hạo, sinh năm Bính Ngọ (1336) lên làm vua hiệu là Dụ Tông. Những nǎm đầu những quyền bính đều do Thượng hoàng Minh Tông điều khiển. Bởi thế, dù có mất mùa dân đói nhưng việc chính trị vẫn còn nền nếp. Từ năm 1358 trở đi, Thượng Hoàng mất, các cựu thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng không còn, triều đình bắt đầu rối loạn. Bọn gian thần kéo bè kết đảng lũng đoạn triều chính. Chu Văn An dâng "thất trảm sớ", xin chém 7 gian thần nhưng vua không nghe, ông liền bỏ quan về dạy học. Vua Dụ Tông ham chơi bời rượu chè khiến triều đình rối nát loạn nổi lên như ong. Nhân dân cực khổ trăm bề. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga mấy lần đem quân đánh phá thành Thắng Long khiến triều Trần nhiều phen khốn đốn. Năm Kỷ Dậu (1369) vua Dụ Tông mất thì bão táp đã nổi lên ở cung đình. Nguyên do, Dụ Tông không có con nên triều đình lập Cung Định vương là anh Dụ Tông lên làm vua nhưng bà Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi. Nguyên mẹ Nhật Lễ là một đào hát, lấy một kép hát boịo là Dương Khương có thai rồi mới bỏ Dương Khương mà lấy Cung Túc vương sinh ra Nhật Lễ. Nay lên làm vua, Nhật Lễ muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần rồi giết bà Hoàng thái hậu cùng Cung Định Vương. Cung Tĩnh vương vốn nhu nhược thấy thể bỏ trốn lên mạn Đà Giang. Trước tình hình nội chính rối ren, các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh về bắt giết Nhật Lễ rồi rước Cung Tĩnh vương về làm vua, tức vua Trần Nghệ Tông. Trần Nghệ Tông (1370-1372) Niên hiệu: Thiệu Khánh Cung Tĩnh vương sinh năm Â't Sửu (1324) do các tôn thất nhà Trần phò giúp, lên ngôi năm Canh Tuất (1370). Nghệ Tông lên làm vua chưa được bao lâu đã phải lao đao chạy giặc. Nguyên do, khi Nhật Lễ bị giết, mẹ Nhật Lễ chạy vào Chiêm Thành cầu cứu vua Chế Bồng Nga đem quân đánh Đại Việt. Quân Chiêm vượt bể vào cửa Đại An tiến đánh Thăng Long. Quân Trần không chống nổi, phải bỏ kinh thành. Vua Nghệ Tông chạy sang Đông Ngàn (Đình Bảng, Bắc Ninh). Vua nhu nhước, bất lực không điều khiển nổi triều chính phải trao cho Hồ Quý Ly nhiều quyền hành. Hồ Quý Ly có hai người cô lấy vua Minh Tông. Một người là Minh Từ hoàng hậu sinh ra vua Duệ Tông, một người là Minh Tử hoàng hậu sinh ra vua Duệ Tông. Năm Nhâm Tý (1372) Nghệ Tông truyền gôi cho em là Kính rồi về phủ Thiên Trường làm Thái thượng hoàng. Trần Duệ Tông (1372-1377) Niên hiệu: Long Khánh Trần Kính sinh năm Đinh Mùi (1337) lên ngôi lấy hiệu là Duệ Tông, lập em họ Hồ Quý Ly là Lê Thị làm Hoàng hậu. Duệ Tông quyết đoán hơn nhưng không thể làm được gì vì quyền bính vẫn do Thượng hoàng Nghệ Tông nắm giữ. Năm Bính Thìn (1376), quân Chiêm sang đánh Hoá Châu (Nghệ An). Thấy Chiêm Thành luôn xâm phạm bờ cõi Đại Việt, vua Du
|
|
| |